Thuốc giảm đau hạ sốt, chống viêm không Steroid là nhóm thuốc không có cấu trúc steroids, không có tác dụng gây nghiện. Vậy tác dụng và cơ chế của nhóm thuốc này như thế nào?
Dược lý về nhóm thuốc giảm đau hạ sốt, chống viêm không Steroid
Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây và cùng các dược sĩ tại Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn tìm hiểu về nhóm thuốc giảm đau hạ sốt, chống viêm không Steroid!
TÁC DỤNG VÀ CƠ CHẾ CỦA NHÓM THUỐC GIẢM ĐAU HẠ SỐT, CHỐNG VIÊM KHÔNG STEROID
Tác dụng hạ sốt
Cơ chế gây sốt: Các nguyên nhân gây sốt có thể là các chất gây sốt ngoại lai như vi khuẩn, độc tố vi khuẩn sau khi xâm nhập vào cơ thể sẽ gây kích thích bạch cầu sản sinh ra chất gây sốt nội tại. Các chất gây sốt nội tại sẽ hoạt hoá prostaglandin synthetase làm tăng sự tổng hợp prostaglandin E1 và E2 từ acid arachidonic ở vùng dưới đồi gây mất cân bằng cơ chế điều nhiệt (tăng các quá trình sinh nhiệt, giảm các quá trình thải nhiệt) gây nên sốt.
Cơ chế hạ sốt: Các thuốc hạ sốt gây ức chế prostaglandin synthetase giúp làm giảm sự tổng hợp prostaglandin E1 và E2, do đó ức chế các quá trình sinh nhiệt, tăng cường các quá trình thải nhiệt và lập lại cân bằng cho trung tâm điều nhiệt. Ở liều điều trị, thuốc có tác dụng hạ sốt khi cơ thể bị sốt do bất kỳ nguyên nhân nào và chỉ có tác dụng điều trị triệu chứng, không hạ thân nhiệt ở người không sốt.
Tác dụng giảm đau
Các thuốc đều có tác dụng giảm đau từ đau nhẹ đến vừa, vị trí tác dụng là ở các receptor cảm giác ngoại vi. Thuốc này có tác dụng tốt với tất cả các loại đau, đặc biệt là các chứng đau do viêm. Khác với thuốc giảm đau trung ương (nhóm opiat), thuốc giảm đau - hạ sốt - chống viêm không có tác dụng làm giảm đau mạnh, không làm giảm đau sâu trong nội tạng, không gây ức chế hô hấp và đặc biệt không gây lệ thuộc thuốc khi dùng kéo dài.
Cơ chế giảm đau: Thuốc làm giảm tổng hợp prostaglandin E2, làm giảm tính cảm thụ của ngọn dây thần kinh cảm giác với các chất gây đau của phản ứng viêm như bradykinin, serotonin...
Tác dụng chống viêm
Cơ chế chống viêm: Các thuốc chống viêm không steroid đều ức chế enzym cyclooxygenase (COX), ngăn cản tổng hợp prostaglandin là chất trung gian hoá học gây viêm, do đó làm giảm quá trình viêm (đây là cơ chế quan trọng nhất).
Ngoài ra các thuốc này còn đối kháng với hệ enzym phân huỷ protein, ngăn cản quá trình biến đổi protein làm vững bền màng lysosom và đối kháng tác dụng của các chất trung gian hoá học như bradykinin, histamin, serotonin, ức chế hoá hướng động bạch cầu, ức chế sự di chuyển của bạch cầu tới ổ viêm. Người ta đã tìm ra 2 loại enzym COX: COX 1 có nhiều ở các tế bào lành, tạo ra các prostaglandin cần cho tác dụng sinh lý bình thường của một số cơ quan trong cơ thể (dạ dày, tiểu cầu, thận...), COX 2 chỉ xuất hiện tại các tổ chức bị tổn thương, có vai trò tạo ra các prostaglandin gây viêm.
Chính vì thế, xu hướng mới là tạo ra các thuốc chống viêm có tác dụng chọn lọc lên enzym COX 2 để thuốc không ảnh hưởng tới chức năng sinh lý bình thường, giảm tác dụng không mong muốn mà vẫn duy trì được tác dụng chống viêm. Một số thuốc có tác dụng ưu tiên trên COX 2 hiện tại được công nhận là rofecoxib, celecoxib và valdecoxib.
Tác dụng chống kết tập tiểu cầu
Các thuốc chống viêm không steroid ức chế enzym thromboxan synthetase làm giảm tổng hợp thromboxan A2 (chất gây kết tập tiểu cầu) nên có tác dụng chống kết tập tiểu cầu.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA NHÓM THUỐC GIẢM ĐAU HẠ SỐT, CHỐNG VIÊM KHÔNG STEROID
Theo giảng viên Cao đẳng Dược Sài Gòn, tác dụng không mong muốn của các thuốc chống viêm không steroid chủ yếu liên quan đến tác dụng ức chế tổng hợp prostaglandin, cụ thể:
Trên đường tiêu hoá
Nhóm thuốc này có thể gây kích ứng dạ dày, gây đau thượng vị, trường hợp nặng hơn có thể là gây loét dạ dày tá tràng, nặng hơn có thể gây xuất huyết tiêu hoá... nguyên nhân là do thuốc ức chế tổng hợp prostaglandin E1 và E2 làm giảm tiết chất nhày và các chất bảo vệ niêm mạc, tạo thuận lợi cho các yếu tố gây loét xâm lấn.
Trên máu
Thuốc này có thể gây kéo dài thời gian chảy máu do ức chế kết tập tiểu cầu, có thể làm giảm tiểu cầu và làm giảm prothrombin. Hậu quả là chúng có thể gây kéo dài thời gian đông máu, mất máu không nhìn thấy qua phân, tăng nguy cơ chảy máu.
Trên thận
Do thuốc có khả năng gây ức chế prostaglandin E2 và I2 (là những chất có vai trò duy trì dòng máu đến thận) nên làm giảm lưu lượng máu qua thận, làm giảm sức lọc cầu thận, làm giảm thải dẫn đến ứ nước, làm tăng kali máu và viêm thận kẽ.
Trên hô hấp
Thuốc gây cơn hen giả trên người không bị hen hoặc làm tăng các cơn hen ở người hen phế quản. Nguyên nhân là do thuốc gây ức chế cyclooxygenase nên acid arachidonic tăng cường chuyển hoá theo con đường tạo ra leucotrien gây co thắt phế quản.
Các tác dụng không mong muốn khác
Các tác dụng không mong muốn khác bao gồm: Mẫn cảm (ban da, mề đay, sốc quá mẫn); gây độc với gan; gây dị tật ở thai nhi nếu dùng thuốc trong 3 tháng đầu của thai kỳ hoặc kéo dài thời kỳ mang thai và chuyển dạ, xuất huyết khi sinh.
Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn đào tạo Dược sĩ uy tín chuyên nghiệp
CHỈ ĐỊNH CHUNG KHI DÙNG NHÓM THUỐC GIẢM ĐAU HẠ SỐT, CHỐNG VIÊM KHÔNG STEROID
Theo các bác sĩ giảng viên lớp Văn bằng 2 Cao đẳng Dược Sài Gòn, khi dùng nhóm thuốc giảm đau hạ sốt, chống viêm không steroid:
- Thuốc được dùng để giảm đau ở mức độ nhẹ và trung bình, đặc biệt rất hiệu quả đối với các loại đau có kèm viêm.
- Thuốc còn dùng để hạ sốt do mọi nguyên nhân gây sốt.
- Thuốc dùng để chống viêm: Các dạng viêm cấp và mạn (viêm khớp dạng thấp, thấp khớp cấp, viêm cột sống dính khớp, bệnh gút... ).
Trên đây là những chia sẻ từ các giảng viên tại Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn về thuốc giảm đau hạ sốt kháng viêm. Qua bài viết mong rằng các bạn có được những thông tin hữu ích về nhóm thuốc này.