Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng là một bệnh hô hấp thường gặp, có thể tiến triển nặng gây nhiều biến chứng, được xác định như là một tình trạng nhiễm trùng cấp tính của nhu mô phổi.
Viêm phổi cộng đồng thường hay gặp ở trẻ em
Nguyên nhân gây viêm phổi công đồng ở trẻ là gì?
Nguyên nhân gây bệnh viêm phổi cộng đồng ở trẻ em được các bác sĩ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn chỉ ra là do vi khuẩn như H.influenza, S.pneumonia..., do virut như virut hợp bào hô hấp (RSV), virut cúm A, B..., do ký sinh trùng hay nấm như Candida, Toxoplasma..., viêm phổi do phế cầu, viêm phổi do H. influenza, viêm phổi do tụ cầu.
Các vi khuẩn khác cũng là nguyên nhân gây viêm phổi ở trẻ em trong đó phải kể đến M.pneumonia thường gây viêm phổi không điển hình ở trẻ em trên 5 tuổi. Liên cầu B và Chlamydia spp. có thể gây viêm phổi cộng đồng ở trẻ sơ sinh. Ngoài ra các vi khuẩn như K.pneumonia và một số vi khuẩn gram âm khác cũng có thể gây viêm phổi ở trẻ nhỏ và đặc biệt là ở trẻ sơ sinh.
Làm thế nào để phát hiện trẻ bị viêm phổi cộng đồng?
Nhiều nghiên cứu cho thấy thở nhanh là dấu hiệu sớm có giá trị trong chẩn đoán viêm phổi cộng đồng vì có độ nhạy và độ đặc hiệu cao so với các trường hợp viêm phổi được chẩn đoán, xác định bằng chụp Xquang.
Trẻ viêm phổi khi có dấu hiệu thở nhanh, nhịp thở nhanh tùy theo độ tuổi quy định như trẻ dưới 2 tháng tuổi, nhịp thở từ 60 lần/phút trở lên, trẻ 2 - 12 tháng tuổi, nhịp thở từ 50 lần/phút trở lên, trẻ từ 12 tháng đến 5 tuổi, nhịp thở từ 40 lần/phút trở lên. Ngoài nhịp thở nhanh, Điều dưỡng viên tốt nghiệp Cao Đẳng Điều dưỡng Sài Gòn còn cho biết trẻ có thêm dấu hiệu ho và sốt, có ran ẩm nhỏ hạt khi nghe phổi. Nếu không được xử lý kịp thời trẻ sẽ bị viêm phổi nặng hơn có biểu hiện rút lõm lồng ngực, tím tái, bú kém, co giật...
Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn đào tạo kỹ thuật chăm sóc trẻ nhỏ
Vì sao phải dùng kháng sinh khi trẻ bị viêm phổi cộng đồng?
Mọi người đều biết rằng viêm phổi do rất nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó nhiều nhất là do vi khuẩn, sau đó đến virus, ký sinh trùng, nấm và một số nguyên nhân hiếm gặp khác...
Về lý thuyết nếu như viêm phổi do virus đơn thuần thì kháng sinh sẽ không có tác dụng gì cả. Tuy vậy cho đến nay rất khó có thể biết được chính xác trường hợp nào là do virus đơn thuần hay do vi khuẩn hoặc có sự kết hợp giữa virus với vi khuẩn kể cả việc dựa vào lâm sàng, phim Xquang và xét nghiệm khác.
Ngay cả khi cấy vi khuẩn âm tính cũng khó có thể loại trừ được trường hợp đó có phải là viêm phổi do vi khuẩn hay không phụ thuộc vào nhiều lý do chẳng hạn như bệnh nhân đã dùng kháng sinh trước đó hay bệnh phẩm lấy không đúng vị trí tổn thương. Vì vậy trên thế giới hiện nay kể cả các nước đã phát triển, nơi có tỷ lệ viêm phổi do vi khuẩn thấp hơn so với các nước đang phát triển thì họ cũng dùng kháng sinh trong các trường hợp viêm phổi trẻ em.
Sử dụng kháng sinh amoxicillin dạng uống được chọn ban đầu. Các thuốc thay thế là co-amoxiclav, cefaclor, erythromycin, azithromycin hay clarithromycin. Ngoài ra, có thể thêm macrolid nếu không đáp ứng với điều trị ban đầu hoặc nghi viêm phổi do mycoplasma/chlamydia hoặc khi bệnh rất nặng. Việc sử dụng kháng sinh uống an toàn và hiệu quả ngay cả với một số trường hợp bệnh nặng. Cần sử dụng kháng sinh tiêm cho các trường hợp viêm phổi nặng có biến chứng hoặc có dấu hiệu nhiễm trùng huyết hoặc không dung nạp hoặc có vấn đề giảm hấp thu thuốc qua đường uống.
Trẻ em dưới 2 tháng tuổi: Khi mắc viêm phổi cần điều trị ngay tại cơ sở y tế bằng cách sử dụng benzyl penicillin hoặc ampicillin kết hợp với gentamicin (tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch) dùng liều 1 lần trong ngày. Một đợt dùng 5-10 ngày. Trường hợp bệnh nhi viêm phổi rất nặng dùng cefotaxime 100-150mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch chia thành 3 - 4 lần.
Trẻ em mắc viêm phổi ở 2 tháng đến 5 tuổi: Trường hợp viêm phổi nhẹ nên điều trị ngoại trú và có thể sử dụng cotrimoxazole hoặc amoxycillin. Theo dõi sau 2-3 ngày điều trị. Nếu đỡ thì tiếp tục điều trị cho đủ 5-7 ngày. Nếu không đỡ hoặc nặng thêm thì chuyển điều trị như viêm phổi nặng.
Trường hợp viêm phổi nặng sẽ được điều trị tại bệnh viện bằng benzyl penicillin hoặc ampicillin. Theo dõi sau 2-3 ngày, nếu đỡ thì tiếp tục điều trị cho đủ từ 5-10 ngày. Nếu bệnh nhân không đỡ hoặc nặng thêm thì cần điều trị như viêm phổi rất nặng.
Viêm phổi rất nặng điều trị tại bệnh viện bằng sử dụng benzyl penicillin, phối hợp với gentamicin (tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch) hoặc chloramphenicol. Một đợt dùng từ 5-10 ngày. Theo dõi sau khoảng 2-3 ngày. Nếu đỡ thì tiếp tục điều trị cho đủ 7-10 ngày hoặc ampicillin kết hợp với gentamicin. Nếu bệnh nhân không đỡ đổi phác đồ điều trị khác hoặc đổi sang thuốc khác.
Viêm phổi ở trẻ em 2 tháng đến 5 tuổi nếu nghi ngờ viêm phổi do tụ cầu: Điều trị bằng oxacillin kết hợp với gentamicin. Nếu không có oxacillin thì có thể thay bằng cephalothin (tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch) + gentamicin hoặc vancomycin.
Viêm phổi ở trẻ em trên 5 tuổi: Điều trị bằng benzyl penicillin, cephalothin hoặc cefuroxime, hoặc ceftriaxone, amoxy/clavulanic hoặc ampicillin/sulbactam.