Bệnh Liệt run trong Y học cổ truyền họi là tứ chi nhuyễn nhược, ma mộc, chấn chiến. Bệnh gây ra những hệ lụy nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh.
Y sĩ YHCT Sài Gòn chia sẻ bài thuốc điều trị bệnh Liệt run
Trong y học hiện đại, bệnh Liệt run là bệnh Parkinson do xuất hiện những tổn thương thoái hóa ở vài vùng trên não, đưa đến sự thiếu hụt chất sinh học là dopamin. Theo các tài liệu mà Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn cập nhật được, nguyên nhân chính gây nên bệnh Parkinson là do ảnh hưởng của tuổi tác, người bệnh càng lớn tuổi thì nguy cơ mắc bệnh càng cao; do can huyết và thận âm bị suy yếu. Một khi huyết bị suy kém sẽ không nuôi dưỡng được các khớp và các mạch máu gây nên co rút, co cứng, run giật. Âm hư thì dương vượng sẽ khiến cho can phong nội động. Khi phong hợp với với đờm thấp sẽ khiến kinh lạc bị ngăn trở gây ra run.
Y học cổ truyền gọi bệnh Liệt run là tứ chi nhuyễn nhược, ma mộc, chấn chiến. Giai đoạn cuối cùng của bệnh được xếp vào loại nuy chứng.
Các bài thuốc Y học cổ truyền điều trị bệnh Liệt run
Y sĩ Y học cổ truyền Sài Gòn cũng chia bệnh Liệt run (Parkinson) thành các thể bệnh khác nhau với các phép trị và bài thuốc dưới đây
Phép trị và bài thuốc Y học cổ truyền ở thể can âm suy, hư phong nội động
Ở thể can âm suy, hư phong nội động, người bệnh xuất hiện các triệu chứng như: gân cơ cứng, tay chân hoặc hàm dưới run, tê, chân tay đau, nhất là khi nghỉ ngơi. Tuy nhiên khi vận động thì các triệu chưng run, đau lại đỡ đi đứng khó khăn, mắt mờ, mắt dại, hố mắt dưới có quầng đen, ăn uống khó khăn, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng, táo bón, mạch huyền, tế.
Phép điều trị: Dưỡng can, bổ thận, tư âm, tức phong. Người bệnh có thể áp dụng bài thuốc theo hướng dẫn của Y sĩ Y học cổ truyền Sài Gòn như sau:
Chuẩn bị: Tang ký sinh 20g, mẫu lệ 20g, sinh địa 15g, thục địa 15g, bạch thược 15g, thạch quyết minh 15g, cương tằm 9g, sơn thù 9g, thiên ma 9g, đương quy 9g, ngưu tất 9g, cam thảo 6g. Đem sắc uống.
Phép trị và bài thuốc Y học cổ truyền ở thể can khí uất kết - khí trệ huyết ứ
Người bệnh có chiểu hiện: Đầu, hàm dưới, tay và chân run nhất là lúc ngủ và ban đêm. Người bệnh không thể cúi ngửa, đau cố định và mất cảm giác toàn thân hoặc chân tay, có vết xuất huyết, lưỡi đỏ tím, mạch tế, huyền, sáp, dễ tức giận.
Phép điều trị: Trấn can, hoạt huyết, tức phong, thông kinh lạc.
Áp dụng bài thuốc: Tang ký sinh 20g; đại giả thạch 15g; thạch quyết minh, đan sâm, bạch thược; xuyên luyện tử 12g; hương phụ 12g; thiên ma, câu đằng ngưu tất, đào nhân, đương quy, uất kim, hồng hoa, thạch xương bồ, mỗi loại 9g; một dược, nhũ hương, cam thảo, mỗi loại 6g.
Phép trị và bài thuốc Y học cổ truyền ở thể khí huyết đều hư
Đây là trường hợp các khớp không được nuôi dưỡng, kinh mạch ứ trệ. Người bệnh cảm thấy mệt mỏi, tinh thần uể oải, không có sức, da mặt xanh xạm, đầu chi co giật, cứng, tay chân tê, gáy cứng, sợ lạnh, ngại nói, đi lại khó khăn, có vết ứ huyết, phân lỏng, dễ bị phù, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch trầm tế.
Phép điều trị: Ích khí, dưỡng huyết, tức phong, thông kinh hoạt lạc. Người bệnh áp dụng bài thuốc: Đan sâm 20g, hoàng kỳ 20g, phục linh 20g, bạch thược 15g, thục địa 15g, ngũ vị tử 15g, câu đằng 12g, bạch truật 9g, nhân sâm 9g, thiên ma 9g, xuyên khung 9g, toàn yết 9g, địa long 9g.
Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn đào tạo Y sĩ Y học cổ truyền Sài Gòn
Phép trị và bài thuốc Y học cổ truyền ở thể tỳ hư thấp trệ, đờm hỏa quấy động phong
Người bệnh xuất hiện các biểu hiện như: Đầu nặng, sợ lạnh, chân tay lạnh, khó cử động, run, òng bàn tay chân và ngực nóng, đầu lưỡi đỏ, lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng, thức ăn không tiêu, phân lỏng, mạch huyền, hoạt.
Phép điều trị: Tức phong, hóa đờm, tiềm dương, trừ thấp, hoạt lạc, thông kinh. Người bệnh áp dụng bài thuốc: Tang ký sinh 20g, thạch quyết minh 15g, đởm nam tinh 9g, bán hạ 9g, chỉ thực 9g, thiên ma 9g, trần bì 9g, câu đằng 9g, hoàng cầm 9g, trúc lịch 9g, ngưu tất 9g, cương tằm 9g, cam thảo 6g.
Tất cả các bài thuốc trên đem sắc uống ngày 1 thang. Đổ 1 lít nước sạch vào sắc đến khi còn 300ml, chia uống 3 lần trong ngày, sau bữa ăn.
Người bệnh nên tuân theo chỉ định của thầy thuốc và không tự ý trị bệnh nhằm đảm sức khỏe chính bản thân mình.